Luận giải Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật (Phẩm Tự) – P5

Chính kinh:

“Cũng đầy đủ chín pháp tưởng thây chết: Tưởng sình, tưởng nứt, tưởng máu chảy, tưởng thúi rã, tưởng bầm xanh, tưởng dòi trùng ăn, tưởng nát, tưởng xương trắng, tưởng cháy tan.”

Luận giải:

“Chín pháp tưởng thây chết”: là nói về con người và muôn loài có sự sống (gọi là chúng sanh).

Bởi tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự Tánh, bất sanh nên không có các pháp, không có chúng sanh, không có chín pháp tưởng thây chết.

Các pháp được hiện hữu là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi, có các pháp, có chúng sanh thời có chín pháp tưởng thây chết.

Do đó, “vì bất sanh nên đầy đủ chín tưởng thây chết”.

Chính kinh:

“Cũng đầy đủ tám chánh niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí xả, niệm thiên, niệm xuất (tức xuất nhập), niệm chết”.

Luận giải:

“Niệm Phật”: là nghĩ nhớ về Phật.

“Niệm Pháp”: là nghĩ nhớ về pháp tu hành.

“Niệm Tăng”: là nghĩ nhớ về người tu hành tự giác ngộ và giúp người khác cùng giác ngộ.

“Niệm giới”: là nghĩ nhớ về các giới.

“Niệm thí xả”: là nghĩ nhớ về bố thí, không chấp các pháp là có thật, xả bỏ hết.

“Niệm thiên”: là nghĩ nhớ về các chư thiên ở các cõi trời.

“Niệm xuất nhập”: là nghĩ nhớ về hơi thở ra, hơi thở vào trong thân không phải tự con người thở mà do Bát nhã ba la mật.

“Niệm chết”: là nghĩ nhớ về cái chết, con người thọ mạng trong một kiếp chỉ như một sát na (một nháy mắt) bởi có sanh, có diệt, dù ở kiếp đời nào cũng không thường còn, không thường hằng. Vì vậy, phải tu hành loại bỏ nghiệp bất thiện để được giải thoát.

Tám chánh niệm là nghĩ nhớ của con người. Bởi con người rỗng không, không có Tự Tánh, không sanh nên không có con người. Không có con người nên cũng không có tám chánh niệm. Sự hiện hữu của con người là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi và làm Tự Tướng trong con người để thực hiện tám chánh niệm. Có các pháp, có con người thì mới có tám chánh niệm.

Do đó, “vì bất sanh nên đầy đủ tám chánh niệm”.

Chính kinh:

“Cũng đầy đủ mười pháp quán: Quán vô thường, quán khổ, quán vô ngã, quán món ăn nhơ nhớp, quán thế gian tất cả đều không đáng vui ưa, quán chết, quán bất tịnh, quán đoạn trừ, quán ly dục, quán diệt tận”.

Luận giải:

“Quán vô thường”: nghĩa là các pháp được sanh ra là không thường định, không thường còn mà có biến đổi (bé, lớn, trẻ, già,… ). Sự vô thường này không phải do các pháp.

“Quán khổ”: là con người từ khi sinh đến khi tử luôn chịu nhiều khổ đau mà không biết nguyên nhân từ đâu.

“Quán vô ngã”: là các pháp đều vô ngã do không có chúa tể, không có chủ tể, Tự Tướng rỗng không, tướng như bất động nên không có tôi, không có ta.

“Quán món ăn nhơ nhớp”: là các món ăn đều không sạch.

“Quán thế gian tất cả đều không đáng vui ưa”: là do tất cả mọi hiện hữu trong thế gian đều không có thật.

“Quán chết”: chúng sanh được sanh ra thì sẽ có diệt (chết) như chín tưởng thây chết.

“Quán bất tịnh”: là quan sát về thân con người từ đầu đến chân đều là những chất bất tịnh (máu, mủ, đờm, dãi, thịt, xương, …). Sự bất tịnh này không phải do các pháp sanh ra.

“Quán đoạn trừ”: là quan sát về sự hao tổn của các pháp, nguyên nhân hao tổn không phải do các pháp.

“Quán ly dục”: xa lìa sáu dục ác, bất thiện.

“Quán diệt tận”: các pháp không có tướng tịch diệt bởi không có tướng sanh nên không có diệt tận, mà tịch diệt tướng các pháp là Nhất thiết chủng trí.

Như Kinh Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Thuần Đà, Đức Phật cũng nói:

“Ba cõi đều vô thường

Mọi loài không có vui

Tánh Tướng của pháp có

Tất cả đều trống không”.

Ba cõi ở đây là cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc đều vô thường nên không có thật, do đó, mọi loài đều không có vui. Tánh Tướng của pháp có là những pháp đã hiện hữu có Tự Tánh, có hình tướng, nhưng tất cả đều rỗng không bởi không tự sanh nên tất cả đều trống không.

Mười pháp quán này đều là những pháp hiện hữu bởi tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự Tánh, không sanh, không có các pháp, không có con người nên không có mười pháp quán. Sự hiện hữu của các pháp, con người là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi và làm Tự Tướng trong các pháp, trong con người để thực hiện mười pháp quán. Có các pháp, có con người thì mới có mười pháp quán.

Do đó, “vì bất sanh nên đầy đủ mười pháp quán”.

Chính kinh:

“Cũng đầy đủ mười một trí: Pháp trí, tỷ trí, tha tâm trí, thế trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, như thiệt trí”.

Luận giải:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Quảng Thừa, Đức Phật Thích Ca chỉ rõ:

“Thế nào gọi là pháp trí? Biết bổn sự của ngũ ấm, đây gọi là pháp trí”, nghĩa là trí (ý thức của Đại Bồ Tát) biết được bản gốc của ngũ ấm (năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức).

“Thế nào gọi là tỷ trí? Biết nhãn vô thường, nhẫn đến biết ý xúc nhơn duyên sanh thọ vô thường, đây gọi là tỷ trí”, nghĩa là ý thức của Đại Bồ Tát biết được các pháp từ nhãn đến ý xúc nhơn duyên sanh thọ có biến đổi, không thường định, không thường còn, không thường hằng.

“Thế nào gọi là tha tâm trí? Biết tâm niệm của những chúng sanh khác, đây gọi là tha tâm trí”, nghĩa là ý thức của Đại Bồ Tát biết được nghĩ nhớ của những chúng sanh khác đều do Bát nhã ba la mật.

“Thế nào gọi là thế trí? Biết nhơn duyên danh tự, đây gọi là thế trí”, nghĩa là ý thức của Đại Bồ Tát biết được nhơn duyên tên gọi của các pháp, các pháp được sanh ra mới có tên gọi.

“Thế nào gọi là khổ trí? Biết khổ chẳng sanh, đây gọi là khổ trí”, nghĩa là ý thức của Đại Bồ Tát biết được khổ không có Tự Tánh, không tự sanh, không có khổ.

“Thế nào gọi là tập trí? Biết tập phải dứt, đây gọi là tập trí”, nghĩa là ý thức của Đại Bồ Tát biết được tập là tập hợp những nghiệp lực hư ngụy từ vô thỉ, tức là những nghiệp ác, bất thiện từ những kiếp trước. Khi không còn hành vào những nghiệp ác, bất thiện thì tập sẽ dứt.

“Thế nào gọi là diệt trí? Biết khổ dứt diệt, đây gọi là diệt trí”, nghĩa là ý thức của Đại Bồ Tát biết được khi con người không còn tạo những nghiệp ác, bất thiện thì Đức Phật sẽ không còn đọa khổ, do đó, khổ dứt diệt.

Thế nào gọi là đạo trí? Biết bát thánh đạo phần, đây gọi là đạo trí”, nghĩa là ý thức của Đại Bồ Tát biết được khi con người muốn dứt diệt khổ thì phải thực hiện bát thánh đạo phần.

“Thế nào gọi là tận trí? Biết tham sân si diệt tận, đây gọi là tận trí”, nghĩa là ý thức của Đại Bồ Tát biết được tham sân si không có Tự Tánh, không sanh, không có thì tham sân si diệt tận.

“Thế nào gọi là vô sanh trí? Biết trong các cõi hữu lậu là vô sanh, đây gọi là vô sanh trí”, nghĩa là ý thức của Đại Bồ Tát  biết được trong các cõi hữu lậu, các pháp đều không có Tự Tánh nên các cõi hữu lậu là vô sanh.

“Thế nào gọi là như thiệt trí? Biết Nhất thiết chủng trí của chư Phật, đây gọi là như thiệt trí”, nghĩa là ý thức của Đại  Bồ Tát biết được Nhất thiết chủng trí của chư Phật tại thế phải thực hiện khác với Nhất thiết chủng trí của chúng sanh.

Mười một trí này là của Đại Bồ Tát.

Bởi tất cả các pháp rỗng không do không có Tự Tánh, không sanh, không có các pháp nên không có chúng sanh, không có Đại Bồ Tát thời cũng không có mười một trí. Sự hiện hữu của các pháp, Đại Bồ Tát là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi và làm Tự Tướng trong các pháp, trong Đại Bồ Tát thực hiện thành tựu mười một trí. Có các pháp, có Đại Bồ Tát thì mới có mười một trí.

Do đó, “vì bất sanh nên đầy đủ mười một trí”.

Chính kinh:

“Cũng đầy đủ ba môn tam muội: Tam muội có giác có quán, tam muội không giác có quán, tam muội không giác không quán”.

Luận giải:

♦“Tam muội có giác có quán”:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Quảng Thừa, Đức Phật nói:

Rời những dục nhiễm và rời những pháp ác bất thiện có giác, có quán, rời dục nhiễm phát sanh hỷ lạc nhập sơ thiền, đây gọi là hữu giác hữu quán tam muội”.

Nhập sơ thiền là “trong có sắc tướng, ngoài quán sắc”, đây chính là hữu giác hữu quán tam muội.

♦“Tam muội vô giác hữu quán”:

Nhập nhị thiền là “trong không sắc tướng, ngoài quán sắc”. Đây chính là vô giác hữu quán tam muội.

♦“Tam muội vô giác vô quán”:

Nhập tam thiền là “tịnh bội xả thân tác chứng”, nghĩa là đã xả bỏ hết các pháp và tên gọi của các pháp, bởi tất cả các pháp đều bất khả đắc, vô sở hữu, cho đến phi hữu tưởng phi vô tưởng đều là vô giác vô quán tam muội.

Tam tam muội môn là những pháp Đại Bồ Tát phải thực hiện, nhưng tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự Tánh, bất sanh nên không có các pháp, không có Đại Bồ Tát, không có tam tam muội môn. Sự hiện hữu của các pháp, Đại Bồ Tát là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi và làm Tự Tướng trong các pháp, trong Đại Bồ Tát để thực hiện tam tam muội môn. Có các pháp, có Đại Bồ Tát thì mới có tam tam muội môn.

Do đó, “vì bất sanh nên đầy đủ tam tam muội môn”.

Chính kinh:

“Cũng đầy đủ ba căn: Căn chưa biết sắp biết, căn biết, căn đã biết”.

Luận giải:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Quảng Thừa, Đức Phật nói:

Những gì là ba? Vị tri dục tri căn, tri căn và tri giả căn.

“Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và huệ căn, ngũ căn của hàng hữu học chưa đắc quả, đây gọi là vị tri dục tri căn”, đây chính là căn chưa biết, sắp biết.

“Ngũ căn của hàng hữu học đã đắc quả, đây gọi là tri căn” chính là căn biết.

“Ngũ căn của bậc vô học, hoặc A la hán, Bích chi Phật, hoặc chư Phật, đây gọi là tri giả căn”. Ở đây chỉ có chư Phật tại thế mới là bậc vô học, chính là căn đã biết, bởi vì chư Phật tại thế là người đưa ra tất cả pháp để tất cả mọi người học. A la hán, Bích chi Phật chỉ là bậc vô lậu, vẫn còn phải học mới được vào địa vị Bồ Tát, nên A la hán, Bích chi Phật không phải là bậc vô học.

Tam căn này là của Đại Bồ Tát.

Bởi tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự Tánh, bất sanh nên không có các pháp, không có Đại Bồ Tát, không có tam căn. Sự hiện hữu của các pháp, Đại Bồ Tát là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi và thực hiện đầy đủ tam căn. Có các pháp, có Đại Bồ Tát thì mới có tam căn.

Do đó, “vì bất sanh nên đầy đủ tam căn”.

Chính kinh:

“Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát muốn biết khắp cả công đức của Phật như mười trí lực, bốn vô sở úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng, đại từ, đại bi, thời phải tu tập Bát nhã ba la mật”.

Luận giải:

Những công đức của Phật tại thế là mười trí lực, bốn vô sở úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng, đại từ, đại bi.

♦“Mười trí lực”:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Quảng Thừa, Đức Phật nói:

“Những gì là mười?

Một là Phật biết như thiệt những tướng thị xứ, bất thị xứ của tất cả pháp.

Hai là Phật biết như thiệt những nghiệp, những thọ pháp của chúng sanh khác, biết chỗ tạo nghiệp, biết nhơn duyên, biết báo của chúng sanh khác.

Ba là Phật biết như thiệt những tướng cấu tịnh sai khác của các thiền giải thoát, các tam muội và các định.

Bốn là Phật biết như thiệt những tướng căn tánh thượng hạ của chúng sanh khác.

Năm là Phật như thiệt biết những loại dục giải của chúng sanh khác.

Sáu là Phật như thiệt biết vô số tánh loài sai khác của thế gian.

Bảy là Phật như thiệt biết chỗ đến của tất cả đạo hạnh.

Tám là Phật như thiệt biết túc mạng của mình và của chúng sanh khác từ một đời đến vô lượng đời trong vô lượng kiếp, có tướng như vậy, có nhân duyên như vậy.

Chín là Phật thiên nhãn thanh tịnh hơn chư thiên, như thiệt thấy biết chúng sanh chết đây sanh kia, hoặc thiện đạo hoặc ác đạo.

Mười là Phật biết như thiệt các lậu tận nên vô lậu tâm giải thoát, vô lậu huệ giải thoát, trong pháp hiện tại tự chứng biết nhập vào pháp ấy, nghĩa là chứng biết như thiệt ta đã hết sanh tử, đã thành phạm hạnh, từ đời nay chẳng còn lại thấy có đời sau nữa”.

♦“Bốn vô sở úy”:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Quảng Thừa, Đức Phật nói:

Những gì là bốn?

Phật nói lời thành thiệt rằng ta là bậc nhất thiết chánh trí. Đối với những điều như thiệt gạn hỏi về các pháp của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả hàng sa môn, Bà la môn, chư Thiên Vương, Phạm vương, Ma Vương cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ nhất.

Phật nói lời thành thiệt rằng ta là bậc tất cả lậu đã dứt diệt hết sạch. Đối với chỗ gạn hỏi như thiệt về lậu phiền não dứt diệt đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Trời, Người cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ hai.

Phật nói lời thành thiệt rằng đây là những pháp chướng ngại chánh đạo giải thoát. Đối với những lời gạn hỏi như thiệt về pháp chướng đạo đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ bậc thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả nhơn, thiên cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ ba.

Phật nói lời thành thiệt rằng những thánh đạo mà ta đã dạy quyết định có thể ra khỏi thế gian, theo đây thật hành thì có thể hết khổ. Đối với những lời gạn hỏi như thiệt về thánh đạo đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ bậc thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả nhơn, thiên cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ tư”.

♦“Bốn trí vô ngại”:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Quảng Thừa, Đức Phật nói:

Những gì là bốn?

Pháp vô ngại trí.

Nghĩa vô ngại trí.

Từ vô ngại trí.

Lạc thuyết vô ngại trí”.

♦“Mười tám pháp bất cộng”:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Quảng Thừa, Đức Phật nói:

Những gì là mười tám?

Một là thân của chư Phật không lỗi.

Hai là khẩu của chư Phật không lỗi.

Ba là ý niệm của chư Phật không lỗi.

Bốn là chư Phật không có dị tướng.

Năm là chư Phật không có tâm bất định.

Sáu là chư Phật không có tâm chẳng biết rồi mà xả.

Bảy là nguyện dục không diệt.

Tám là tinh tấn không diệt.

Chín là chánh niệm không diệt.

Mười là huệ không diệt.

Mười một là giải thoát không diệt.

Mười hai là giải thoát tri kiến không diệt.

Mười ba là tất cả thân nghiệp của chư Phật đều theo trí huệ mà hiện hành.

Mười bốn là tất cả khẩu nghiệp đều theo trí huệ mà hiện hành.

Mười lăm là tất cả ý nghiệp đều theo trí huệ mà hiện hành.

Mười sáu là trí huệ của chư Phật thấy biết thuở quá khứ không ngại, không chướng.

Mười bảy là trí huệ thấy biết thuở vị lai không ngại, không chướng.

Mười tám là trí huệ thấy biết thuở hiện tại không ngại, không chướng”.

♦“Đại từ”: là làm cho tất cả chúng sanh an lạc.

♦“Đại bi”: là cứu khổ, cứu nạn độ sanh cho tất cả chúng sanh.

Trên đây là tất cả công đức của Phật tại thế.

Tu tập Bát nhã ba la mật là tu tập các Pháp Không (rỗng không), như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập II, Phẩm Vô Tác: “Thiên Đế hỏi Ngài Tu Bồ Đề: “Nếu Đại Bồ Tát tu tập Bát nhã ba la mật là tu tập pháp gì? Ngài Tu Bồ Đề bảo Thiên Đế: “ Này Kiều Thi Ca, Đại Bồ Tát tu tập Bát nhã ba la mật là tu tập không””, nghĩa là tu tập tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự Tánh, bất sanh, không có các pháp, không có con người, không có Phật tại thế.

Sự hiện hữu của các pháp, con người, Phật tại thế là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi và làm Tự Tướng trong các pháp, trong con người, trong Phật tại thế để thực hiện đầy đủ các công đức kể trên. Dù là Phật tại thế được hiện hữu nhưng Tự Tướng rỗng không, vô ngã, tướng như bất động, mọi hoạt động vận động, tác động qua lại là bất khả đắc, nên không thể tạo ra các công đức. Mọi công đức này đều do Bát nhã ba la mật (Phật Tánh) thường trụ và làm Tự Tướng trong Phật tại thế tạo tác thành tựu như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập III, Phẩm Tam Huệ, Đức Phật Thích Ca nói: “Này Tu Bồ Đề! Đức Phật dùng thiệt tướng của các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh. Hóa Phật cũng dùng thiệt tướng của các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh”.

“Đức Phật” ở đây là Chánh thân Như Lai (Đệ nhất nghĩa đế, Bát nhã ba la mật).

“Hóa Phật” là Pháp thân Như Lai do Chánh thân Như Lai (Đệ nhất nghĩa đế, Bát nhã ba la mật) phân thân ra còn được gọi là Tự Tánh Như Lai Tạng, Phật Tánh, Bát nhã ba la mật, là cái trực tiếp tạo tác, sanh khởi ra các pháp, con người và Phật tại thế (như Đức Phật Thích Ca).

“Thiệt tướng của các pháp” là do các pháp không có Tự Tánh, không sanh nên không có tướng. Thiệt tướng của các pháp chính là Pháp thân Như Lai (Bát nhã ba la mật).

Do đó, “Đại Bồ Tát muốn biết khắp cả công đức của Phật như mười trí lực, bốn vô sở úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng, đại từ, đại bi thời phải tu tập Bát nhã ba la mật”.

Chính kinh:

“Đại Bồ Tát muốn đầy đủ đạo huệ, muốn dùng đạo huệ để đầy đủ đạo chủng huệ, muốn dùng đạo chủng huệ để đầy đủ nhất thiết trí, muốn dùng nhất thiết trí để đầy đủ nhất thiết chủng trí, muốn dùng nhất thiết chủng trí để dứt tập khí phiền não, đều phải tu tập Bát nhã ba la mật”.

Luận giải:

♦“Đại Bồ Tát muốn đầy đủ đạo huệ, muốn dùng đạo huệ để đầy đủ đạo chủng huệ, muốn dùng đạo chủng huệ để đầy đủ nhất thiết trí, muốn dùng nhất thiết trí để đầy đủ nhất thiết chủng trí thì phải tu tập Bát nhã ba la mật”:

“Đạo huệ”: là trí huệ của hàng Thanh Văn.

“Đạo chủng huệ”: là trí huệ của hàng Duyên Giác.

“Nhất thiết trí”: là trí huệ của hàng Bồ Tát.

“Nhất thiết chủng trí”: là trí huệ của Phật tại thế.

“Tu tập Bát nhã ba la mật”: là tu tập các Pháp Không (rỗng không) do các pháp không có Tự Tánh, không sanh nên không có các pháp, không có Đại Bồ Tát, không có các đạo kể trên. Sự hiện hữu của các pháp, Đại Bồ tát, các đạo kể trên là do Bát nhã ba la mật.

Đạo huệ, đạo chủng huệ, nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí tất cả đều là Trí tuệ Phật (Bát nhã ba la mật). Đại Bồ Tát dù có hiện hữu nhưng Tự Tướng rỗng không, tướng như bất động nên muốn đầy đủ đạo huệ, đạo chủng huệ, nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí là bất khả đắc.

Vì vậy, Đại Bồ Tát muốn biết về đạo huệ, đạo chủng huệ, nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí thì phải tu tập Bát nhã ba la mật.

♦“Muốn dùng nhất thiết chủng trí để dứt tất cả tập khí phiền não thì phải tu tập Bát nhã ba la mật”:

Tất cả tập khí phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi,… ) do không có Tự Tánh nên không sanh, rỗng không, không có.

Sự hiện hữu của tất cả tập khí phiền não trong con người là do Bát nhã ba la mật sanh khởi, do đó, Bát nhã ba la mật sẽ diệt tất cả tập khí phiền não. Mà Bát nhã ba la mật chính là Nhất thiết chủng trí như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập II, Phẩm Đại Như, Đức Phật nói: “Nhất thiết chủng trí là Bát nhã ba la mật, Bát nhã ba la mật là Nhất thiết chủng trí”. Vì vậy, “muốn dùng Nhất thiết chủng trí để dứt tất cả tập khí phiền não thì phải tu tập Bát nhã ba la mật”.

Do đó, “Đại Bồ Tát muốn đầy đủ đạo huệ, muốn dùng đạo huệ để đầy đủ đạo chủng huệ, muốn dùng đạo chủng huệ để đầy đủ nhất thiết trí, muốn dùng nhất thiết trí để đầy đủ nhất thiết chủng trí, muốn dùng nhất thiết chủng trí để dứt tập khí phiền não, đều phải tu tập Bát nhã ba la mật”.

Chính kinh:

“Đại Bồ Tát phải học tập Bát nhã ba la mật như vậy”.

Luận giải:

Đại Bồ Tát phải học và tu tập Bát nhã ba la mật tức là học và tu tập tất cả các pháp đều bất khả đắc, vô sở hữu bởi không có Tự Tánh, không sanh, rỗng không: “vì tất cả pháp chẳng sanh như vậy nên Bát nhã ba la mật phải sanh” (Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập II, Phẩm Chiếu Minh).

Sự hiện hữu của các pháp là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi.

Học Bát nhã ba la mật là học về trí tuệ siêu việt đến từ bờ kia, chính là Trí tuệ Phật (Bát nhã ba la mật) tạo tác, sanh diệt tất cả các pháp trong vũ trụ, vạn vật ở hằng sa thế giới mười phương như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập 3, Phẩm Tam Huệ, Đức Phật nói: “Bát nhã ba la mật hay sanh tất cả pháp, tất cả biện tài, tất cả chiếu minh”.

Do đó, “Đại Bồ Tát phải học tập Bát nhã ba la mật như vậy”.

(Còn tiếp …)

Chùa Hang, ngày 18 tháng 06 năm 2021

Phạm Thị Mý