Luận giải Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật (Phẩm Tự) – P8

Chính kinh:

“Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật lúc bố thí nên biết rõ rằng: Bố thí như vậy được quả báo rất lớn, bố thí như vậy được sanh vào giòng quý hiền, bố thí như vậy được sanh lên trời Tứ Vương, trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa, bố thí như vậy được nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi hữu tưởng, phi vô tưởng xứ, nhơn bố thì này được bát thánh đạo phần, nhơn bố thí này được quả Tu đà hoàn nhẫn đến quả Phật, nên phải học Bát nhã ba la mật”.

Luận giải:

Muốn thật hành Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát phải học Bát nhã ba la mật.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp, nên thực hành Bát nhã ba la mật là Đại Bồ Tát không chấp trước vào các pháp. Lúc bố thí, bố thì này là bố thí ba la mật, Đại Bồ Tát không thấy người thí, không thấy người nhận và không thấy vật thí, vì các pháp không có Tự tánh nên không có cỗ máy tạo tác, cấu tạo, sản xuất ra các pháp nên các pháp không sanh, do đó, các pháp là rỗng không.

Bố thí ba la mật gồm bố thí tài và bố thí pháp.

– Bố thí tài: Đại Bồ Tát trao tiền tài, vật dụng cho chúng sanh.

– Bố thí pháp: Đại Bồ Tát thuyết giảng, chỉ ra cho chúng sanh biết các pháp không có Tự tánh, không tự sanh khởi ra các pháp, các pháp là rỗng không, không chấp trước vào các pháp.

Đại Bồ Tát hiểu rõ được các pháp đều rỗng không. Khi thấy rõ được các pháp đều rỗng không thì không sanh những tâm xan lẫn (tâm tham lam), phá giới, sân hận, … Như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Tu Tập Đúng, Đức Phật nói:

“Đại Bồ Tát tu tập pháp không như vậy có thể phát sanh đại từ đại bi, chẳng sanh những tâm xan lẫn, phạm giới, sân hận, giải đãi, tán loạn, vô tri”.

Ở đây,  Đại Bồ Tát tu tập pháp không là tu tập các pháp đều rỗng không.

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập II, Phẩm Chiếu Minh, Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng sanh như vậy nên Bát nhã ba la mật phải sanh”.

Do đó, sự hiện hữu của các pháp là do Bát nhã ba la mật hay Nhất thiết trí tạo tác, sanh khởi và làm Tự tướng trong các pháp, trong Đại Bồ tát, trong chúng sanh để thực hiện thành tựu pháp bố thí. Bố thí như vậy được các quả báo rất lớn là:

Bố thí như vậy (tức là bố thí ba la mật) sẽ được sanh vào giòng quý hiền.

Bố thí như vậy (tức là bố thí ba la mật) sẽ được sanh lên trời Tứ Vương, trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa: Bởi Đại Bồ Tát biết rõ tất cả các pháp đều rỗng không nên không còn sanh những tâm xan lẫn, sân hận, phá giới, … sau khi chết sẽ được sanh vào các cõi trời kể trên.

Bố thí như vậy (tức là bố thí ba la mật) sẽ được nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi hữu tưởng, phi vô tưởng xứ: Bởi Đại Bồ Tát hiểu rõ tất cả các pháp đều rỗng không nên tâm Đại Bồ Tát chẳng tán loạn, chẳng say đắm vì tâm Đại Bồ Tát cũng như Đại Bồ Tát đều Tự tướng rỗng không, tướng như bất động, mà tất cả là do Nhất thiết trí làm chúa tể, chủ tể cai quản mọi hoạt động, vận động để tâm Đại Bồ Tát chẳng tán loạn, chẳng say đắm mà nhập từ sơ thiền nhẫn đến phi vô tưởng xứ để quan sát vật chất và tinh thần của con người cũng như của thế giới.

Nhơn bố thí này (tức là bố thí ba la mật) sẽ được Bát thánh đạo phần: Đại Bồ Tát hiểu được chúa tể, chủ tể cai quản mọi hoạt động, vận động của Đại Bồ Tát là Nhất thiết trí, còn gọi là Nhất thiết Thánh trí thực hiện thành tựu trong pháp bố thí nên Đại Bồ Tát hiểu được việc thực hiện Bát thánh đạo phần tất cả là do Nhất thiết trí (Thánh trí) thường trụ trong Đại Bồ Tát thực hiện chứ không phải tự Đại Bồ Tát thực hiện. Do đó, gọi là nhơn bố thí này được Bát thánh đạo phần.

Nhơn bố thí này (tức là bố thí ba la mật) sẽ được quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả Phật: Đại Bồ Tát hiểu được các pháp đều rỗng không nên chẳng tâm xan lẫn, sân hận, ngu si, … mà chỉ siêng tu các pháp thiện. Tùy theo thiện căn thành tựu mà được Nhất thiết trí thường trụ trong thân chứng các quả tu tương ứng từ Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả Phật. Quả Phật là Bồ Tát từ bậc Bát trụ địa trở lên.

Muốn được như vậy thời Đại Bồ Tát phải học Bát nhã ba la mật.

Chính kinh:

““Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật, lúc bố thí, do nơi sức huệ phương tiện nên có thể đầy đủ Đàn na ba la mật, Thi la ba la mật, Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia ba la mật, Thiền na ba la mật và Bát nhã ba la mật”.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát lúc bố thí, do nơi sức huệ phương tiện nên đầy đủ sáu ba la mật?”.

Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Do vì người bố thí, kẻ thọ và tài vật đều bất khả đắc nên có thể đầy đủ Đàn na ba la mật. Vì có tội cùng chẳng tội đều chẳng dính mắc nên đầy đủ Thi la ba la mật. Vì tâm bất động nên đầy đủ Sằn đề ba la mật. Vì thân tâm tinh tấn nên đầy đủ Tỳ lê gia ba la mật. Vì chẳng tán loạn chẳng say đắm nên đầy đủ Thiền na ba la mật. Vì biết tất cả pháp đều bất khả đắc nên đầy đủ Bát nhã ba la mật.””

Luận giải:

Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật là thật hành các pháp rỗng không, không chấp trước các pháp. Như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập II, Phẩm Vô Tác, Đức Phật nói:

Muốn thật thành Bát nhã ba la mật Đại Bồ Tát chẳng hành nơi sắc, chẳng hành nơi thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến chẳng hành nơi Nhất thiết chủng trí, thời đó là thật hành Bát nhã ba la mật.

Tại sao vậy? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến Nhất thiết chủng trí đây vốn không có tánh”.

Do vậy, thật hành Bát nhã ba la mật là không chấp trước vào tất cả các pháp.

– “Do vì người bố thí, kẻ thọ và tài vật đều bất khả đắc nên có thể đầy đủ Đàn na ba la mật”:

Đại Bồ Tát thực hiện bố thí tài pháp cho chúng sanh, nhưng do thực hành Bát nhã ba la mật nên không chấp trước vào tất cả pháp. Lúc bố thí Đại Bồ Tát phải dùng tâm đúng với Nhất thiết trí, nghĩa là Đại Bồ Tát hiểu được Nhất thiết trí là Pháp tánh thường trụ trong các pháp, trong chúng sanh như Kinh Lăng Già, Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm chỉ rõ:

“Tự Tánh Như Lai tạng vốn trong sạch, thường trụ, chẳng đoạn, chẳng có biến đổi, đầy đủ ba mươi  hai tướng nơi thân của tất cả chúng sanh”.

Tự tánh Như Lai tạng chính là Bát nhã ba la mật, cũng là Nhất thiết trí thường trụ trong các pháp, trong chúng sanh. Nhất thiết trí chính là sức huệ phương tiện, nghĩa là Nhất thiết trí là cái tạo tác, cấu tạo, sản xuất, khởi sanh ra các pháp, ra chúng sanh, tức là làm Tự tánh để sanh khởi ra các pháp; còn các pháp không có cỗ máy tạo tác, cấu tạo, sản xuất, khởi sanh ra các pháp, tức là các pháp không có Tự tánh nên không tự sanh ra được các pháp. Do các pháp không tự sanh ra được nên các pháp là vô sanh, vô khởi, các pháp là rỗng không, tìm được Vô tác tam muội: “Vô tác tam muội là nói đối với các pháp không mong cầu tạo tác”, tức là các pháp không có tướng sanh, nên các pháp không mong cầu tạo tác. Vì vậy, bố thí ba la mật là không thấy người thí, không thấy người nhận, không thấy vật thí.

Các pháp không sanh nên các pháp không diệt bởi các pháp không có tướng sanh. Do các pháp không có Tự tánh để tự sanh khởi nên không có tướng diệt, tìm được Vô tướng tam muội: “Vô tướng tam muội là nói diệt hoại các pháp tướng, không nghĩ không nhớ”, tức là các pháp không có tướng tự tịch diệt, mà tịch diệt tướng các pháp là Nhất thiết chủng trí, như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập III, Phẩm Tam Huệ, Đức Phật nói: “Vì tướng duy nhất nên gọi là Nhất thiết chủng trí, đó là tất cả pháp tịch diệt tướng”.

Nhất thiết chủng trí chính là Bát nhã ba la mật, cũng là Nhất thiết trí. Như vậy, Nhất thiết trí sanh ra các pháp thì Nhất thiết trí cũng diệt các pháp.

Các pháp không có tướng sanh, không có tướng diệt vì các pháp không có Tự tướng. Tự tướng hay Tự tánh cũng chính là cái sanh khởi ra các pháp và làm cho các pháp hoạt động, vận động, tác động qua lại thành tựu nhưng đối với các pháp thì Tự tánh, Tự tướng đều rỗng không. Do Tự tướng rỗng không nên các pháp tướng như tức là bất động. Vì vậy, người thí, người nhận, vật thí đều bất khả đắc nên đầy đủ Đàn na ba la mật.

– “Vì có tội cùng chẳng tội đều chẳng dính mắc nên đầy đủ Thi la ba la mật”:

Đại Bồ Tát thực hành trì giới, thực hiện đầy đủ thập thiện đạo và cũng dạy người khác thực hiện để tránh báo ứng nhân quả. Lúc thực hành Bát nhã ba la mật Đại Bồ Tát không chấp trước tất cả pháp. Do sức huệ phương tiện chính là Nhất thiết trí làm cái tạo tác cấu tạo, sản xuất, khởi sanh ra các pháp, làm Tự tướng thường trụ trong các pháp như đã nói ở phần Đàn na ba la mật nên Đại Bồ Tát hiểu được việc thực hiện trì giới trong chúng sanh, trong Đại Bồ Tát là do Nhất thiết trí làm Tự tướng trong chúng sanh, trong Đại Bồ Tát thực hiện thành tựu; còn chúng sanh, Đại Bồ Tát dù có hiện hữu nhưng Tự tướng rỗng không, tướng như bất động nên việc trì giới hay phá giới là bất khả đắc. Do đó, việc tạo ra tội, hay không tạo ra tội đều không dính mắc nên đầy đủ Thi la ba la mật.

– “Vì tâm bất động nên đầy đủ Sằn đề ba la mật”:

Thực hành nhẫn nhục, Đại Bồ Tát tự mình thực hành đầy đủ nhẫn nhục và cũng dạy người khác thực hành nhẫn nhục để tránh báo ứng nhân quả. Lúc thực hành Bát nhã ba la mật Đại Bồ Tát chẳng chấp trước tất cả pháp. Do sức huệ phương tiện chính là Nhất thiết trí làm cái tạo tác, khởi sanh ra các pháp và làm Tự tướng thường trụ trong các pháp như đã nói ở phần Đàn na ba la mật nên Đại Bồ Tát hiểu được việc thực hiện nhẫn nhục để tâm chẳng khởi lên sân hận khi bị người khác đánh đập, chửi mắng là do Nhất thiết trí làm Tự tướng trong Đại Bồ Tát thực hiện thành tựu; còn các pháp, con người, Đại Bồ Tát dù có hiện hữu, nhưng Tự tướng rỗng không, tướng như bất động nên việc thực hiện nhẫn nhục là bất khả đắc. Như vậy, do Tâm sở tướng như nên tâm sở bất động, do đó, đầy đủ Sằn đề ba la mật.

– “Vì thân tâm tinh tấn nên đầy đủ Tỳ lê gia ba la mật”:

Thực hành tinh tấn, Đại Bồ Tát phải thân tâm tinh tấn, siêng tu không thôi nghỉ các thiện pháp và cũng dạy người khác thực hành các thiện pháp. Lúc thực hành Bát nhã ba la mật Đại Bồ Tát chẳng chấp trước tất cả pháp. Do sức huệ phương tiện chính là Nhất thiết trí làm cái tạo tác, khởi sanh ra các pháp và làm Tự tướng thường trụ trong các pháp, trong con người, trong Đại Bồ Tát như đã nói ở phần Đàn na ba la mật nên Đại Bồ Tát hiểu được việc thực hiện thân tâm tinh tấn, thực hiện các thiện pháp là do Nhất thiết trí làm Tự tướng trong Đại Bồ Tát thực hiện thành tựu; còn các pháp, con người, Đại Bồ Tát dù có hiện hữu, nhưng Tự tướng rỗng không, tướng như bất động nên việc thực hiện tinh tấn hay giải đãi là bất khả đắc. Đại Bồ Tát luôn luôn suy nghĩ về các thiện pháp nên được Bát nhã ba la mật ở trong thân tác động cho thân tâm tinh tấn, do đó, đầy đủ Tỳ lê gia ba la mật.

– “Vì chẳng tán loạn chẳng say đắm nên đầy đủ Thiền na ba la mật”:

Thiền ở đây là thiền quán để quan sát các pháp, tìm thấy sự đúng đắn, chân thật của các pháp. Đại Bồ Tát thực hành quan sát các pháp và cũng dạy người khác thiền. Muốn quan sát các pháp thì tâm chẳng tán loạn, chẳng say đắm mới quan sát được. Lúc thực hành Bát nhã ba la mật Đại Bồ tát không chấp trước vào các pháp. Do sức huệ phương tiện chính là Nhất thiết trí làm cái tạo tác, khởi sanh ra các pháp và làm Tự tướng thường trụ trong các pháp, trong con người, trong Đại Bồ Tát như đã nói ở phần Đàn na ba la mật nên Đại Bồ Tát hiểu được việc để tâm chẳng tán loạn, chẳng say đắm mà quan sát các pháp là do Nhất thiết trí thường trụ và làm Tự tướng trong Đại Bồ Tát thực hiện thành tựu; còn các pháp, con người, Đại Bồ Tát dù có hiện hữu nhưng Tự tướng rỗng không, tướng như bất động nên việc định hay loạn của tâm là bất khả đắc. Như vậy, vì Tâm sở tướng như bất động nên chẳng tán loạn, chẳng say đắm, do đó, đầy đủ Thiền na ba la mật.

– “Vì biết tất cả pháp đều bất khả đắc nên đầy đủ Bát nhã ba la mật”:

Thực hành Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát chẳng chấp trước tất cả pháp bởi tất cả pháp đều do sức huệ phương tiện, chính là Nhất thiết trí tạo tác, sanh khởi, thường trụ và làm Tự tướng trong các pháp như đã nói ở phần Đàn na ba la mật; còn các pháp thì không có Tự tánh, vô sanh, rỗng không nên bất khả đắc. Nhưng Nhất thiết trí hay Bát nhã ba la mật tạo tác ra các pháp cũng không có Tự tánh, vô sanh, rỗng không như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập III, Phẩm Đại Phương Tiện, Đức Phật nói:“Vì Bát nhã ba la mật không sanh, không diệt, các pháp thường trụ vậy”, nghĩa là Bát nhã ba la mật hay Nhất thiết trí là cái tạo tác, sanh khởi và thường trụ trong các pháp, nhưng Bát nhã ba la mật cũng không sanh, không diệt bởi không có Tự tánh, không tự sanh, rỗng không nên bất khả đắc. Như vậy, Đại Bồ Tát hiểu được tất cả pháp kể cả Nhất thiết trí hay Bát nhã ba la mật đều bất khả đắc nên đầy đủ Bát nhã ba la mật.

Do đó, Đại Bồ Tát thực hành Bát nhã ba la mật, lúc bố thí do nơi sức huệ phương tiện, nghĩa là Nhất thiết trí là sức huệ phương tiện làm Tự tánh tạo tác, sanh khởi và làm Tự tướng trong các pháp, trong Đại Bồ Tát để thực hiện thành tựu sáu ba la mật.

Chính kinh:

“Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát muốn được công đức của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, thời phải học Bát nhã ba la mật.”

Luận giải:

Công đức của chư Phật tại thế là mười trí lực, bốn vô sở úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất công, đại từ, đại bi.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp, không có chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.

Sự hiện hữu của các pháp là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi và làm Tự tướng trong các pháp để các pháp hoạt động, vận động, tác động qua lại. Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi ra chư Phật tại thế dù là quá khứ, hiện tại, vị lai. Các công đức của chư Phật đều do Bát nhã ba la mật làm Tự tướng trong chư Phật thực hiện thành tựu, dù chư Phật có được hiện hữu nhưng Tự tướng rỗng không, tướng như bất động nên việc tạo ra công đức là bất khả đắc.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được tất cả các công đức của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều là do Bát nhã ba la mật.

Do đó, “Đại Bồ Tát muốn được công đức của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, thời phải học Bát nhã ba la mật”.

Chính kinh:

“Muốn đến bờ kia của pháp hữu vi và pháp vô vi, thì phải học Bát nhã ba la mật”.

Luận giải:

Pháp hữu vi, pháp vô vi được Đức Phật chỉ rõ trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Cú Nghĩa là:

Này Tu Bồ Đề! Những gì là pháp hữu vi? Nếu là pháp có sanh, có trụ, có diệt, Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, Ngũ ấm nhẫn đến ý xúc, nhân duyên, sanh thọ, tứ niệm xứ nhẫn đến pháp bất cộng và nhứt thiết trí, đây gọi là pháp hữu vi.

Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là pháp vô vi? Nếu là pháp bất sanh, bất trụ, bất diệt sạch tham, sân, si, pháp như, pháp tánh, pháp tướng, pháp vị, thiệt tế, đây gọi là pháp vô vi”.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp hữu vi.

Sự hiện hữu của các pháp hữu vi là do pháp vô vi (Pháp tánh, Phật tánh, Bát nhã ba la mật) tạo tác, sanh khởi ra mà có. Con người được hiện hữu chính là pháp hữu vi do pháp vô vi (Phật tánh) tạo ra và thường trụ trong con người, cai quản sanh diệt mọi hoạt động, vận động của con người. Phật tánh còn được gọi là Tâm vương. Ý thức là Tâm sở. Tâm sở của con người do Tâm vương tạo ra. Khi Tâm sở tiếp cận được với Tâm vương nghĩa là hành thâm Bát nhã ba la mật chính là đã đến được bờ kia của pháp hữu vi và pháp vô vi.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ tát hiểu được như vậy. Muốn đến được bờ kia của pháp hữu vi và pháp vô vi là do Bát nhã ba la mật nên phải học Bát nhã ba la mật.

Do đó, “muốn đến bờ kia của pháp hữu vi và pháp vô vi, thì phải học Bát nhã ba la mật”.

Chính kinh:

“Muốn biết pháp như, pháp tướng và biên tế vô sanh của các pháp quá khứ, hiện tại, vị lai, thời phải học Bát nhã ba la mật”.

Luận giải:

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp nên không có quá khứ, hiện tại, vị lai.

Sự hiện hữu của các pháp là do Bát nhã ba la mật chính là pháp như, pháp tướng làm Tự tánh sanh khởi ra các pháp và tạo nên tướng các pháp. Có các pháp mới có được quá khứ, hiện tại, vị lai.

Biên tế là giữa kiếp quá khứ với kiếp hiện tại hay giữa kiếp hiện tại và kiếp vị lai. Do đó, trong cái biên tế giữa kiếp này và kiếp khác được sanh ra là do cái tạo tác sanh khởi. Đó chính là pháp như, pháp tướng, cũng là Bát nhã ba la mật, còn các pháp vốn thể là không sanh. Do đó, Bát nhã ba la mật, pháp như, pháp tướng sanh ra các pháp trong biên tế quá khứ, hiện tại, vị lai.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát mới hiểu được như vậy.

Do đó, “muốn biết pháp như, pháp tướng và biên tế vô sanh của các pháp quá khứ, hiện tại, vị lai, thời phải học Bát nhã ba la mật”.

Chính kinh:

“Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát muốn đứng trước tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác, muốn hầu hạ chư Phật, muốn làm nội quyến của chư Phật, muốn được quyến thuộc lớn, muốn được quyến thuộc Bồ Tát, muốn thanh tịnh báo đại thí, thời phải học Bát nhã ba la mật”.

Luận giải:

♦ “Đại Bồ Tát muốn đứng trước tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác thời phải học Bát nhã ba la mật”:

Hàng Thanh Văn, Duyên Giác là những bậc tu hành chấp trước các pháp là có thật, các pháp do Nhân Duyên sanh nên khó được giải thoát. Như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập III, Phẩm Nhất Niệm, Đức Phật nói:

“Này Tu Bồ Đề! Vì tất cả pháp không có tánh nên Bồ Tát vì chúng sanh cầu Vô thượng Bồ Đề.

Tại sao? Vì những ai có được, có chấp thì khó được giải thoát”.

Học Bát Nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp. Hí luận là chấp trước vào các pháp, vô hí luận là không chấp trước vào các pháp. Khi không chấp vào các pháp thời sẽ được nhập vào địa vị Bồ Tát. Như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập III, Phẩm Biến Học, Đức Phật nói:

“Này Tu Bồ Đề! Nếu Đại Bồ Tát hay hành vô hí luận Bát nhã ba la mật như vậy thì liền nhập Bồ Tát vị”.

Khi được vào địa vị Bồ Tát sẽ hơn bậc Thanh Văn, Duyên Giác. Như vậy, muốn được vào địa vị Bồ Tát để đứng trước hàng Thanh Văn, Duyên Giác thời Đại Bồ Tát phải học Bát nhã ba la mật.

♦ “Muốn hầu hạ chư Phật thời phải học Bát nhã ba la mật”:

Chư Phật là các Phật tại thế, muốn hầu hạ chư Phật phải biết được thế nào là Phật.

Muốn biết thế nào là người tu được thành Phật thì phải học Bát nhã ba la mật.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp nên không có con người, không có chư Phật tại thế.

Sự hiện hữu của các pháp, con người, chư Phật tại thế là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi và thường trụ trong các pháp, trong con người. Con người được hiện hữu là do Bát nhã ba la mật (Phật tánh), còn gọi là Tâm vương, ý thức của con người gọi là Tâm sở. Tâm sở cũng như con người là do Tâm vương tạo ra. Người tu hành thành tựu các pháp thiện thì có Tâm sở nhập toàn giác với Tâm vương (còn gọi là nhập Phật tri kiến), được thành Phật như Đức Phật Thích Ca.

Muốn Tâm sở nhập được với Tâm vương là do Bát nhã ba la mật (Phật tánh) thường trụ trong Đại Bồ Tát, do đó, phải học Bát nhã ba la mật.

Muốn được hầu hạ chư Phật là do Bát nhã ba la mật nên phải học Bát nhã ba la mật.

♦ “Muốn làm nội quyến của chư Phật thời phải học Bát nhã ba la mật”:

Nghĩa là muốn được ở đạo tràng của chư Phật tại thế thì phải học Bát nhã ba la mật. Đạo tràng của chư Phật là đạo tràng Vô thượng Bồ Đề. Muốn biết thế nào là Vô thượng Bồ Đề thời phải học Bát nhã ba la mật.

Đại Bồ Tát học Bát nhã ba la mật sẽ biết được các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp.

Sự hiện hữu của các pháp là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi ra các pháp và làm chúa tể, chủ tể cai quản sanh diệt các pháp. Đó chính là Phật tánh, là Thứ đệ, cũng gọi là Vô thượng Bồ Đề. Như vậy, Vô thượng Bồ Đề là cái tạo tác, sanh diệt các pháp nên phải phát tâm cầu Vô thượng Bồ Đề, như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập III, Phẩm Nhất Niệm, Đức Phật nói:

“Này Tu Bồ Đề! Vì tất cả pháp không có tánh nên Bồ Tát vì chúng sanh cầu Vô thượng Bồ Đề”.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát sẽ hiểu được Vô thượng Bồ Đề là cái tạo tác, sanh khởi ra các pháp. Muốn được làm nội quyến của chư Phật là do Bát nhã ba la mật nên Đại Bồ Tát phải học Bát nhã ba la mật.

♦“Muốn được quyến thuộc lớn thời phải học Bát nhã ba la mật”:

Quyến thuộc lớn là đạo tràng đông có nhiều Phật tử mà mình đang phụ trách.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp.

Sự hiện hữu của các pháp là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi và làm Tự tướng trong các pháp, trong con người để các pháp, con người hoạt động, vận động, tác động qua lại. Mọi mong muốn của Đại Bồ Tát được khả đắc là do Bát nhã ba la mật. Còn Đại Bồ Tát dù có được hiện hữu cũng Tự tướng rỗng không, vô ngã, tướng như bất động mọi hoạt động đi đứng, nói cười mong muốn đều bất khả đắc

Như vậy, muốn được quyến thuộc lớn là do Bát nhã ba la mật nên Đại Bồ Tát phải học Bát nhã ba la mật.

♦ “Muốn được quyến thuộc Bồ Tát thời phải học Bát nhã ba la mật”:

Quyến thuộc Bồ Tát nghĩa là cùng được sinh hoạt với các Bồ Tát.

Học bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp, không có quyến thuộc Bồ Tát.

Sự hiện hữu của các pháp, con người, Bồ Tát là do Bát nhã ba la mật nên muốn được quyến thuộc Bồ Tát là do Bát nhã ba la mật. Do đó, Đại Bồ Tát phải học Bát nhã ba la mật.

♦ “Muốn thanh tịnh báo đại thí thời phải học Bát nhã ba la mật””

Đại thí chính là Đàn na ba la mật.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp.

Sự hiện hữu của các pháp là do Bát nhã ba la mật, hay Nhất thiết trí tạo tác, sanh khởi và làm Tự tướng trong người cho, kẻ nhận để thực hiện thành tựu pháp bố thí. Do đó, trong Đàn na ba la mật thấy được pháp bố thí, người cho, kẻ nhận, vật thí đều bất khả đắc, nghĩa là người cho, kẻ nhận, vật thí đều không có Tự tánh, không sanh đều rốt ráo, rỗng không nên gọi là thanh tịnh báo đại thí.

Như vậy, muốn thanh tịnh báo đại thí thì Đại Bồ Tát phải học Bát nhã ba la mật.

Chính kinh:

Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát muốn những tâm xan lẫn, phá giới, sân khuể, giải đãi, tán loạn, ngu si đều chẳng phát khởi, thời phải học Bát nhã ba la mật.

Luận giải:

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp, không có con người, không có những tâm xan lẫn, phá giới, sân khuể, giải đãi, tán loạn, ngu si.

Sự hiện hữu của các pháp, con người là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi và làm Tự tướng trong các pháp, trong con người để điều hành mọi hoạt động, vận động của các pháp, con người và tâm con người. Con người dù được Bát nhã ba la mật tạo ra nhưng Tự tướng rỗng không, vô ngã, tướng như bất động nên mọi hoạt động như đi, đứng, nằm, ngồi, …  và các trạng thái của tâm đều là bất khả đắc.

Các trạng thái của tâm xan lẫn, phá giới, sân khuể, giải đãi, tán loạn, ngu si đều do Bát nhã ba la mật thường trụ trong Đại Bồ Tát tạo ra.

Muốn những trạng thái tâm kể trên chẳng phát khởi được thì Đại Bồ Tát phải không chấp vào các pháp, nghĩa là thấy được các pháp đều rỗng không như Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Tu Tập Đúng, Đức Phật nói:

“Đại Bồ Tát tu tập pháp không như vậy có thể phát sanh đại từ đại bi, chẳng sanh những tâm xan lẫn, phạm giới, sân hận, giải đãi, tán loạn, vô tri”.

Đại Bồ Tát tu tập pháp không nghĩa là tu tập các pháp đều rỗng không thì Bát nhã ba la mật thường trụ trong Đại Bồ Tát sẽ không phát khởi những tâm xan lẫn, phá giới, sân khuể, giải đãi, tán loạn, ngu si.

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được như vậy nên phải học Bát nhã ba la mật.

Do đó, “Đại Bồ Tát muốn những tâm xan lẫn, phá giới, sân khuể, giải đãi, tán loạn, ngu si đều chẳng phát khởi, thời phải học Bát nhã ba la mật”.

Chính kinh:

“Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát muốn làm cho tất cả chúng sanh đứng vững nơi phước bố thí, nơi phước trì giới, nơi phước tu tập thiền định, nơi phước khuyến đạo, nơi tài phước và pháp phước, thời phải học bát nhã ba la mật”.

Luận giải:

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ tát hiểu được các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp, không có chúng sanh.

Sự hiện hữu của các pháp, chúng sanh là do Bát nhã ba la mật làm Tự tánh tạo tác, sanh khởi, thường trụ và làm Tự tướng trong các pháp trong chúng sanh để chúng sanh đứng vững nơi phước bố thí, nơi phước trì giới, nơi phước tu tập thiền định, nơi phước khuyến đạo, nơi tài phước và pháp phước.

Tất cả là do Bát nhã ba la mật, do đó phải học Bát nhã ba la mật.

Như vậy, “Đại Bồ Tát muốn làm cho tất cả chúng sanh đứng vững nơi phước bố thí, nơi phước trì giới, nơi phước tu tập thiền định, nơi phước khuyến đạo, nơi tài phước và pháp phước, thời phải học bát nhã ba la mật”.

Chính kinh:

“Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát muốn được ngũ nhãn, thời phải học Bát nhã ba la mật. Đây là ngũ nhãn: nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn”.

Luận giải:

Học Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát hiểu được các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh, không có các pháp, không có con người, không có ngũ nhãn:  Nhục nhãn, Thiên nhãn, Huệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn. Sự hiện hữu của các pháp, con người là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi.

Muốn được ngũ nhãn cũng do Bát nhã ba la mật thường trụ trong Đại Bồ Tát phát khởi, do đó, Đại Bồ Tát phải học Bát nhã ba la mật.

Ngũ nhãn bao gồm:

– Nhục nhãn:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Vãng Sanh, Đức Phật nói:

“Nầy Xá Lợi Phất! có Đại Bồ Tát nhục nhãn thấy xa trăm do tuần, có vị thấy hai trăm do tuần, có vị thấy toàn cõi Diêm Phù Đề, có vị thấy hai thiên hạ hoặc ba bốn thiên hạ, có vị thấy khắp Tiểu thiên thế giới, hoặc thấy Trung thiên thế giới, có Bồ Tát nhục nhãn thấy suốt Đại thiên thế giới. Đây là nhục nhãn thanh tịnh của Đại Bồ Tát”.

Như vậy, Đại Bồ tát có Nhục nhãn thanh tịnh là những Bồ Tát đang có giới hạn về cái nhìn thiển cận, không quan sát được các pháp một cách toàn diện.

– Thiên Nhãn:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Vãng Sanh, Đức Phật nói:

“Nầy Xá Lợi Phất! có Đại Bồ Tát thiên nhãn thấy như Tứ Thiên Vương đã thấy, hoặc như Đao Lợi Thiên, như Dạ Ma Thiên, như Đâu Suất Thiên, như Hóa Lạc Thiên, như Tha Hóa Thiên, như Phạm Thiên Vương nhẫn đến như Sắc Cứu Cánh Thiên đã thấy.

Thiên nhãn của Đại Bồ Tát lại thấy chúng sanh trong Hằng Sa thế giới chết nơi đây, sanh nơi kia. Chỗ thấy này chư thiên từ Tứ Vương đến Sắc Cứu Cánh Thiên chẳng biết, chẳng thấy được và cũng chính là thiên nhãn thanh tịnh của Đại Bồ Tát”.

Như vậy,  Đại Bồ Tát có Thiên nhãn thanh tịnh là những Bồ Tát  thấy rõ được trong vũ trụ này từ chúng sanh cho đến các cõi trời đều được hiện hữu là do Pháp tánh, Phật tánh, Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi. Chúng sanh chết chỗ này, sanh chỗ kia là do Pháp tánh chứ không phải tại chúng sanh.

– Huệ nhãn:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Vãng Sanh, Đức Phật nói: Này Xá Lợi Phất! Huệ nhãn của Bồ Tát chẳng nghĩ rằng có những pháp là hữu vi, là vô vi, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu lậu, là vô lậu, mà không pháp nào chẳng thấy, không pháp nào chẳng nghe, không pháp nào chẳng hay, không pháp nào chẳng biết. Đây là huệ nhãn thanh tịnh của Đại Bồ Tát.

Như vậy, Đại Bồ Tát có Huệ nhãn thanh tịnh là những Bồ Tát  thấy rõ được tất cả các pháp đều rỗng không do không có Tự tánh, không sanh. Sự hiện hữu của tất cả các pháp là do Bát nhã ba la mật tạo tác, sanh khởi.

– Pháp nhãn:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Vãng Sanh, Đức Phật nói:

Này Xá Lợi Phất! do nơi pháp nhãn, Đại Bồ Tát biết người này là tùy tín hành, người này là tùy pháp hành, người này là vô tướng hành, cũng biết người này tu môn không giải thoát, người này tu môn vô tướng giải thoát, người này tu môn vô tác giải thoát, người này được ngũ căn, do được ngũ căn mà được vô gián tam muội, do được vô gián tam muội mà được trí giải thoát, do được trí giải thoát mà dứt trừ tam kiết, là thấy có ngã, nghi ngờ và giới thủ, người này gọi là được quả Tu Đà Hoàn. Bồ Tát cũng biết người này được tư duy đạo làm mỏng bớt tham sân si, được quả Tư Đà Hàm, người này tăng tấn tư duy đạo dứt tham sân si dục giới, được quả A na Hàm, người này tăng tấn tư duy đạo dứt tham sân si mạn sắc giới và vô sắc giới, được quả A la hán. Bồ Tát cũng biết người này tu môn giải thoát không, vô tướng, vô tác được ngũ căn, được vô gián tam muội, do vô gián tam muội mà được trí giải thoát, do trí giải thoát rõ biết bao nhiêu phiền não, nghiệp nhơn tích tập đều là pháp tịch diệt, được quả Bích Chi Phật. Pháp nhãn thanh tịnh của Bồ Tát thấy biết như vậy.

Này Xá Lợi Phất ! do nơi pháp nhãn, Đại Bồ Tát biết người nầy sơ phát tâm Bồ đề thật thành sáu ba la mật, thành tựu tín căn và tinh tấn căn, người này thiện căn thuần hậu, vì dùng sức phương tiện mà thọ thân để lợi ích chúng sanh: hoặc sanh dòng Sát đế lợi, hoặc sanh dòng Bà la môn, hoặc sanh dòng cư sĩ, hoặc sanh cõi trời Tứ Vương, trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha hóa, luôn luôn giáo hóa thành tựu chúng sanh và cấp thí cho họ đủ mọi thứ cần dùng, đồng thời thanh tịnh Phật độ, cung kính cúng dường chư Phật mãi đến đạo Vô thượng Bồ Đề chẳng sa vào bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật. Pháp nhãn thanh tịnh của Bồ Tát thấy biết như vậy.

Này Xá Lợi Phất ! do nơi pháp nhãn, Đại Bồ Tát biết vị Bồ Tát này thối chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ Đề, vị Bồ Tát này không thối chuyển, vị Bồ Tát này đã được thọ ký làm Phật, vị Bồ Tát này chưa được thọ ký, vị Bồ Tát này đã đến bậc bất thối chuyển, vị Bồ Tát này chưa đến bậc bất thối chuyển, cũng biết vị Bồ Tát này đã đầy đủ thần thông, vị này chưa đầy đủ thần thông, cũng biết vị này đầy đủ thần thông bay đến mười phương hằng sa thế giới, cung kính cúng dường chư Phật, cũng biết vị này chưa được thần thông, rồi sẽ được thần thông, cũng biết vị này thanh tịnh Phật độ, vị này chưa thanh tịnh Phật độ, vị này thành tựu chúng sanh, vị này chưa thành tựu chúng sanh, vị này được chư Phật khen ngợi, vị này chưa được chư Phật khen ngợi, vị này hầu gần chư Phật, vị này không hầu gần chư Phật; vị này thọ mạng vô lượng, vị này thọ mạng hữu lượng, vị Bồ Tát này lúc thành Phật chúng Tỳ kheo hữu lượng, vị này chúng Tỳ kheo vô lượng, vị này lúc thành Phật dùng Bồ Tát làm Tăng, vị này không dùng Bồ Tát làm Tăng, vị này tu khổ hạnh khó làm, vị này không tu khổ hạnh khó làm, vị này là nhất sanh bổ xứ, vị này chưa nhất sanh bổ xứ, vị này thọ thân tối hậu, vị này chưa thọ thân tối hậu, vị này có thể ngồi đạo tràng, vị này không thể ngồi đạo tràng, vị này có phá ma, vị này không có phá ma. Những sự thấy biết này là pháp nhãn thanh tịnh của Đại Bồ Tát”.

Như vậy, Đại Bồ Tát thấy rõ được sự hiện hữu và các quả trong ba thừa ở mỗi người tu theo những pháp khác nhau, người thì thối chuyển người thì tinh tấn, … Thấy biết hết thảy tất cả một cách đầy đủ gọi là Pháp nhãn thanh tịnh của Đại Bồ Tát.

– Phật nhãn:

Kinh Bát Kinh Nhã Ba La Mật, Tập I, Phẩm Vãng Sanh, Đức Phật nói:

Này Xá Lợi Phất ! có Đại Bồ Tát từ nơi tâm cầu Phật đạo tuần tự nhập Kim cang tam muội được Nhất thiết chủng trí, bấy giờ thành tựu thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất cộng pháp, đại từ, đại bi. Dùng Nhất thiết chủng trí trong tất cả pháp, không pháp nào chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng hay, chẳng biết. Nên biết đây là Phật nhãn thanh tịnh lúc Đại Bồ Tát được Vô thượng Bồ Đề”.

Như vậy, Đại Bồ Tát thấy được Phật tánh trong chính mình và trong các pháp. Đây gọi là Phật nhãn thanh tịnh lúc Đại Bồ Tát được Vô thượng Bồ Đề.

Do đó, “Đại Bồ Tát muốn được ngũ nhãn, thời phải học Bát nhã ba la mật. Đây là ngũ nhãn: nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn”.

(Còn tiếp …)

Chùa Hang, ngày 08 tháng 07 năm 2021

Phạm Thị Mý