Bài phát biểu tham luận tại Hội thảo Quốc tế lần thứ nhất của GS.VS. Đào Vọng Đức

NỘI HƯ KHÔNG VỚI NGUỒN NĂNG LƯỢNG SINH KHỞI BẤT TẬN

Nhân loại đang chứng kiến những bước phát triển ngoạn mục của Khoa học và Công nghệ với những phát minh kỳ diệu trong nhiều lĩnh vực, từ các lý thuyết trừu tượng đến các ứng dụng rộng rãi trong thực tế sản xuất và đời sống. Cũng đồng thời xuất hiện ngày càng nhiều những khả năng phi thường của con người, những hiện tượng siêu nhiên kỳ bí mà chưa cách nào lý giải nổi một cách thấu đáo nếu chỉ dựa trên những kết quả đã có cho đến nay của Khoa học. Những thành tựu của Khoa học và Công nghệ hiện đại, đặc biệt là Vật lý học đương đại, rọi những tia sáng mới vào cách tiếp cận nghiên cứu về các phạm trù thuộc các lĩnh vực siêu nhiên huyền bí.

Lịch sử phát triển của Khoa học trên thế giới cũng cho thấy rằng những phát minh lớn có được không chỉ dựa vào lý trí và lập luận logic thuần tuý, mà còn bằng cả những nhạy cảm thẩm mỹ và sự hỗ trợ của các yếu tố trực giác và cảm hứng. Nhiều học giả và nhiều nhà tiên tri danh tiếng đã tiên lượng rằng thế kỷ 21 này sẽ đánh dấu một bước tiến vĩ đại về tư duy, đó là nhận thức được rằng Khoa học và Tâm linh không hề đối nghịch nhau mà chính là ngược lại, đó là hai mặt bổ sung cho nhau để nghiên cứu thực tại.

Báo cáo này đề cập một số nét về các thành tựu của Vật lý đương đại liên quan đến chủ đề của Hội thảo hôm nay, rọi những tia sáng vào cách tiếp cận nghiên cứu các vấn về thuộc các lĩnh vực siêu nhiên huyền bí, đặc biệt là khả năng thu nhận năng lượng siêu nhiên và luận giải về những hiện tượng liên quan đến khả năng thu nhận thông tin vũ trụ.

Những thành quả kỳ diệu nhất của Khoa học và Công nghệ hiện đại khơi nguồn từ các nguyên lý của Thuyết lượng tử và Thuyết tương đối, những thành tựu vĩ đại nhất của Vật lý học thế kỷ trước. Người ta thường ví những thành quả từ đó mang đến cho cuộc sống ngày nay như những đợt sóng thần ngày càng dâng cao trong quá trình phát triển của cộng đồng với những ảnh hưởng lớn lao không lường hết được đối với sự tồn vinh của nhân loại.

Thuyết lượng tử dẫn đến một hệ quả rất quan trọng là không thể tồn tại chân không như một “không gian trống rỗng”, hoàn toàn trùng hợp với giáo lý về chân không “Lý Màu Thường Trụ” trong Kinh Phật. Chân không là trạng thái nền với mức năng lượng thấp nhất, nhưng mức thấp nhất ấy cũng đã là lớn vô tận. Khi hội tụ các điều kiện thích hợp, từ chân không sẽ sinh ra các hạt mọi thể loại tương tác với nhau qua mọi hình thái, tạo nên thế giới muôn hình muôn vẻ như ta cảm nhận. Bản chất này của “chân không lượng tử” dẫn đến sự tồn tại một tha lực kỳ bí, trong đó được gọi là hiệu ứng Casimir. Ứng dụng hiệu ứng này vào công nghệ nano và tìm kiếm những nguồn năng lượng mới là một hướng nghiên cứu đầy hứa hẹn đang được đặc biệt quan tâm.

Từ Thuyết lượng tử mà Feynman đã nảy ra ý tưởng về Máy tính lượng tử, một lĩnh vực nghiên cứu đang trên đà phát triển rất sôi động. Nhiều ý kiến nhận định rằng đó sẽ là một thành tựu ngoạn mục nhất của thế kỷ 21 này, sẽ tạo ra những bước tiến vĩ đại không những trong Khoa học và Công nghệ mà còn rất nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Máy tính lượng tử vận hành với các trạng thái lượng tử rất đặc biệt gọi là “trạng thái chằng chịt” (entangled states). Các trạng thái này dẫn đến một “tác động thần bí phi không gian”. Gắn liền với Máy tính lượng tử là Viễn chuyển lượng từ và Thông tin lượng tử, những lĩnh vực có tính thời sự đang trên đà phát triển mạnh.

Lý thuyết đã chứng tỏ rằng có thể tạo ra được cơ chế chuyển một trạng thái bất kỳ từ vị trí này qua vị trí khác và từ đó tái tạo một vật thể từ nơi này qua nơi khác trong chớp nhoáng. Hiện tượng này có thể gọi là “Thần thông chuyển vị lượng tử” (quantum teleportation), làm ta liên tưởng đến những câu chuyện thần thoại về thần thông biến hóa, xuất quỷ nhập thần …

Liên quan đến Viễn chuyển lượng tử, một hướng nghiên cứu mới phát sinh là “Viễn chuyển tâm linh” (Psychic teleportation). Bản chất của Viễn chuyển tâm linh là áp dụng các nguyên lý của máy tính lượng tử để dung thông truyền đạt ý tưởng hoặc điều khiển các vật thể di động, biến hóa bằng một dạng tương tác tâm linh huyền bí.

Những thành tựu của Vật lý đương đại rọi những tia sáng minh triết vào Khoa học dự báo, lĩnh vực liên quan trực tiếp đến phạm trù Không gian – Thời gian. Có thể lý luận chứng tỏ rằng thời gian không trôi chảy. Những cảm nhận về thời gian trôi chảy trong tâm thức ta chỉ là ảo giác, như Einstein đã khẳng định: “Quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là những ảo tưởng cố hữu”. Đã có nhiều ý kiến cho rằng sự cảm nhận thời gian trôi liên quan đến các quá trình lượng tử xảy ra trong bộ não.

Đã có ý tưởng đề xuất cho rằng trong mỗi con người đều có yếu tố thực hiện chức năng một cỗ máy tính lượng tử đã được tạo hóa ban cho vào bộ não. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với giáo lý trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật, đoạn giảng về năm Uẩn, trong đó Uẩn tưởng chính là Trí tuệ Phật, Ức tưởng tư duy, là pháp thân của Phật, còn gọi là Tâm Vương hay Như Lai tạng, A Lại Da thức, Tàng thức, … Đó chính là chủ thể thi vi tạo tác, tạo ra mọi pháp muôn hình muôn vẻ.

Từ các nghiên cứu về cấu trúc của tế bào sống đã có những lập luận khẳng định rằng các vi mạch thần kinh có các thuộc tính lượng tử thực hiện chức năng như những cấu phần của máy tính lượng tử để lưu trữ và chuyển tải các thông tin được mã hóa dưới dạng các trạng thái lượng tử. Điều này cũng tương thích với luận giải trong Kinh Phật về Nội hư không và Ngoại hư không, sóng tinh thần phát ra từ A Lại Da Thức mang thông tin tâm linh được chuyển tải theo các chiều nội tại phi không gian – thời gian, không hạn chế tốc độ.

Nghiên cứu thế giới vi mô cùng với các hình thái năng lượng và các quy luật tương tác trong đó để tạo nên thế giới vũ trụ quanh ta ra sao là những vấn đề cốt lõi của Vật lý đương đại. Một hướng nghiên cứu có tầm quan trọng đặc biệt là xây dựng lý thuyết Đại thống nhất – thống nhất các dạng tương tác trên cùng một nền tảng. Cũng từ đây đã khởi lên những ý tưởng về sự tồn tại các dạng siêu tương tác ứng với các hiện tượng siêu nhiên mà các giác quan bình thường của con người cũng như Khoa học – Kỹ thuật hiện nay chưa đủ trình độ phát hiện và luận giải.

Các kết quả nghiên cứu lý thuyết đã chứng tỏ rằng ngoài 3 chiều không gian và một chiều thời gian như chúng ta đang sống, nhất thiết phải tồn tại một số chiều không gian – thời gian nữa được gọi là các chiều nội tại – các chiều phụ trội (Extra dimensions)

Nghiên cứu bản chất các chiều nội tại là những vấn đề có tính thời sự đặc biệt, có giả thiết cho rằng các chiều nội tại liên quan đến thế giới tâm linh, các quy luật tác động trong đó mang màu sắc các phạm trù tâm linh, và tương tác tâm linh bắt nguồn từ không gian nội tại.

Ở đây ta có thể liên tưởng đến một dạng năng lượng siêu nhiên bắt nguồn từ lòng từ bi bác ái, vô ngã, vị tha được nói đến nhiều trong Kinh Phật, Kinh Thánh, cũng như các vị thần tâm linh thường nhắc nhở, tình yêu thương cũng như môi trường tình thương dẫn đến một dạng tương tác tâm linh tạo ra “Năng lượng tình thương” giúp hóa giải bệnh tật, tăng cường sức khoẻ vượt qua mọi chướng ngại.

Trong Kinh Dược sư có viết rằng, Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi còn tu hành Đạo Bồ Tát, xuất phát từ lòng thương chúng sinh có phát tâm 12 Đại nguyện mà trước tiên là: Nguyện khi chứng đắc đạo Vô thượng Bồ Đề thân hình sáng trưng rực rỡ như Ngọc lưu ly, soi suốt vô lượng thế giới, công đức cao vời vợi và an trú trên tầng lưới hào quang. Chúng sinh nhờ ánh sáng đó mà tâm trí được mở mang, thân hình khoẻ mạnh, làm việc gì cũng được vẹn toàn như ý.

Một lý thuyết Đại thống nhất được đánh giá có nhiều triển vọng là Lý Thuyết Siêu Dây (Superstring). Lý thuyết Siêu Dây xem các hạt cơ bản như những sợi dây vô cùng bé, các trạng thái khác nhau của các hạt như các trạng thái cung bậc kích thích khác nhau của các dây. Như vậy thế giới hiện tượng ví như bản giao hưởng vũ trụ huyền diệu dưới sự chỉ huy của một nhạc trưởng siêu nhiên, Đấng tạo hóa tối cao.

Trong lý thuyết Siêu Dây số chiều phụ trội là 6, co gọn lại thành các vòng cực bé. Tính tôpô hình học của không gian phụ trội quyết định các đại lượng đặc trưng của các hạt cơ bản trong không gian – thời gian thông thường của chúng ta.

Đặc biệt trong lý thuyết Dây phải tính đến các trường Vong (Ghosts). Các trường này không xuất hiện trong thực tại, nhưng lại có tác dụng chỉ đạo trong việc chi phối cơ chế tương tác, trong cấu trúc của lý thuyết và từ đó các đặc trưng Vật lý quan sát được.

Gần đây đã có những công trình nghiên cứu (ĐVĐ và cộng sự) đăng tải trên các tạp chí Khoa học quốc tế, đề xuất cơ chế lý thuyết chứng tỏ rằng các chiều phụ trội là nơi khởi nguồn sinh ra khối lượng, điện tích, cũng như mọi dạng tương tác, xuất phát từ tính cách co gọn các chiều phụ trội. Cũng đồng thời chứng tỏ rằng các chiều phụ trội tựa thời gian (time-like) liên quan đến các hạt khối lượng ảo (tachyon) có thể chuyển động trong không gian thông thường với tốc độ không giới hạn.

Những kết quả trên đây cũng hoàn toàn phù hợp với các thuyết giảng trong Kinh Phật về Nội hư không và Ngoại hư không. Ngoại hư không là thế giới hữu vi – Sắc giới, là thế giới Vô Ngã. Nội hư không là thế giới vô vi – Vô sắc giới, là chủ thể thi vi tạo tác, tạo ra tất cả mọi vật, mọi pháp trong Ngoại hư không, có năng lượng bất tận, khả năng biến hóa vô biên.

Liên quan đến lĩnh vực này là các quan niệm về “Ý thức lượng tử”,  “Cuộc sống lượng tử”,  “Xã hội lượng tử”, trên cơ sở đó có thể tiếp cận luận giải về những phạm trù tiên tri, kinh nghiệm cận tử, xuất hồn, luân hồi, tái kiếp …

Nội hư không có thể hiểu là các chiều không gian phụ trội, không gian của các pháp thân của Như Lai tạo nên thế giới vô vi. Ngoại hư không là không gian thông thường của vạn vật, thế giới hữu vi. Nội hư không có năng lực tự tại, từ đó phát sinh siêu năng lượng trên cơ sở thần lực của Như Lai để tạo tác sinh hóa cấu thành vũ trụ vạn vật.

Lý thuyết Siêu Dây được phát triển nâng cao thêm thành Lý thuyết M (Magic, Mystery, Mother …). Trên cơ sở lý thuyết này có hy vọng tìm được cách tiếp cận giải thích các hiện tượng tâm linh, các hiện tượng đang được xem là thần bí, huyền bí … Một hệ quả trực tiếp của Lý thuyết M là sự tồn tại song song đa vũ trụ, có khả năng tồn tại đồng thời 10500 vũ trụ khác nhau, mỗi vũ trụ vận hành theo những quy luật riêng. Tất cả các vũ trụ này tạo nên từ sự thăng giáng lượng tử của chân không và là các phiên bản của nhau, mãi mãi có quan hệ với nhau. Bản thân mỗi con người cũng đều có phiên bản ở tất cả hằng hà sa số vũ trụ đó và tương quan với nhau. Trong mô hình vũ trụ này tồn tại vô số con người trong cùng một con người, và tại mỗi vị trí mỗi thời khắc tất cả các thông tin trong toàn vũ trụ, mọi nơi chốn, mọi thời đại đều hiện hữu.

Những kết quả trên đây cũng hoàn toàn tương thích với Lý thuyết toàn ảnh (Holography) của Bohm – Pribram với quan điểm rằng vũ trụ là một toàn ảnh (hologram) bộ não cũng là một toàn ảnh cuộn vào trong vũ trụ toàn ảnh đó. Mọi thành phần của vũ trụ đều dung thông với nhau (interconnected) và ngược lại toàn bộ vũ trụ hiện hữu trong mọi thành phần của vũ trụ.

Nội hàm của Lý thuyết toàn ảnh một cách ngẫu nhiên phù hợp với 4 câu thơ đầy ý nghĩa của William – Blake khoảng 2 thế kỷ trước:

              To see a World in a Grain of Sand

              And a Heaven in a wild flower

              Hold Infinity in the Palm of your hand

               And Eternity in an Hour.

Tạm dịch như sau:

               Để thấy vũ trụ trong từng hạt bụi

               Trong bông hoa dại thấy cõi Thiên Thai

               Hãy nắm vô tận trong lòng bàn tay

               Và cả Thiên thu một giờ giữ lấy.

Sự dung thông của toàn vũ trụ trong lý thuyết toàn ảnh cũng hoàn toàn tương thích với tính dung thông luận giải trong Kinh Phật. Do có sự dung thông tuyệt đối giữa các phân thân từ Đấng tạo hóa tối cao ẩn trong mọi pháp, mọi nơi, trong vũ trụ là cả một quá trình dung thông giữa mọi vật. Như vậy, về nguyên tắc con người có thể thu nhận được thông tin về tất cả sự vật, hiện tượng trong vũ trụ.

Nhân đây ta cũng cần nhắc đến giả thuyết của chủ nghĩa Duy tự nhiên (Naturalism) cho rằng thế giới tự nhiên là một hệ khép kín, không một yếu tố ngoại lai nào có thể làm ảnh hưởng. Tuy nhiên, điều này không thuận với định lý bất toàn của Godel (1931)  khẳng định rằng một hệ tiên đề khép kín không thể là phi mâu thuẫn. Muốn lý giải được mọi thứ phải có thêm yếu tố ngoại lai, chấp nhận niềm tin vào điều gì đó không thể chứng minh. Định lý bất toàn Godel chứng tỏ rằng Khoa học không bao giờ lấp kín những lổ hổng của chính nó. Điều này cũng hoàn toàn tương thích với quan điểm của Einstein cho rằng: “Trí tuệ con người không đủ khả năng thấu hiểu vũ trụ vạn vật”.

Ở đây về mặt lý luận còn rất nhiều vấn đề, rất nhiều câu hỏi phải được nghiên cứu lý giải, đặc biệt với các hiện tượng siêu nhiên thì đòi hỏi phải vận dụng các khái niệm, các phạm trù cùng với hệ tiên đề hoàn toàn mới có thể rất xa lạ với những điều đã quen thuộc trước đó. Đây là cuộc viễn chinh Khoa học lâu dài nhưng đầy triển vọng, đòi hỏi sự đóng góp công sức và trí tuệ của các nhà Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội cùng các ngành Khoa học phi truyền thống.

GS.VS. Đào Vọng Đức

Nguyên Viện trưởng Viện Vật Lý, Viện HLKHVN

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

[1]. Đào Vọng Đức, Các nguyên lý cơ bản của Lý thuyết Siêu Dây lượng tử – NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ 2007

[2]. Đào Vọng Đức, Phù Chí Hoà, Từ Thuyết lượng tử đến Máy tính lượng tử – NXB Khoa học – Kỹ thuật 2013.

[3]. Đào Vọng Đức, Phù Chí Hoà, Lý thuyết tương đối rộng với Không – thời gian đa chiều – NXB Khoa học kỹ thuật 2015

[4]. Dao Vong Duc, Nguyen Mong Giao, Mass Creation From Extradimensions, J.Modern Phys (USA) 2014, V.5,477

[5]. Dao Vong Duc et al, Time -like Extradimensions as the Origin of Tachyons, J.Phys.Science and Appl (USA) 2014, V4,60

[6]. Dao Vong Duc, Phu Chi Hoa, Generally Covariant Duality and Tachyon of Cosmological Nature, J.Modern Phys (USA) 2014, V.5, 2016

[7]. Đao Vong Duc et al, Mass Spectrum of Spinor Fields in Extradimensions, Int .J.Theoret. Phys. 2015, V.54, 1071

[8]. Dao Vong Duc, Nguyen Mong Giao, A mechanisam for Charge Creation From Extradimensions Int .J.Theoret. Phys. 2016, V.56, 959

[9]. Dao Vong Duc et al, Charge – Mass Sum Rule and the Prediction … Mod. Phys. Lett A, Vol 33, N1 (2019)

[10]. Dao Vong Duc, Nguyen Mong Giao, New Insights into Physical Science, 2020/BP/4020D

[11]. Dao Vong Duc, Nguyen Mong Giao, New Insights into Physical Science, 2020/BP/4028D

[12]. Dao Vong Duc, Nguyen Ngoc Thuan, Quantum Teleportation of two particle states, ICTP Preprint, IC/IR/2002/1 Trieste, Italy, 2002

——————————————-

INTERNAL EXTRASPACE WITH UNENDING ACTIVATING SOURCE OF ENERGY

Humanity is witnessing the spectacular development of Science and Technology with miraculous inventions in many fields, from abstract theories to wide applications in real life and production. At the same time, there are more and more extraordinary human abilities, mysterious supernatural phenomena that cannot be fully explained based on the results so far of Science. The achievements of modern Science and Technology, especially contemporary Physics, shed new light on the research approach to the categories of the occult supernatural fields.

The history of the development of Science in the world also shows that great inventions are achieved not only by reason and pure logical reasoning, but also by aesthetic sensibilities and the support of intuition and inspiration factors. Many famous scholars and prophets have foretold that this 21st century will mark a great leap forward in thinking, which is the realization that Science and Spirituality are not opposites, but on the contrary, they are two complementary aspects to the study of reality.

This report mentions some of the achievements of contemporary Physics related to the topic of today’s Conference, sheds light on the approach to research problems in the fields of the occult, especially the ability to receive supernatural energy and interpret phenomena related to the ability to receive cosmic information.

The most wondrous achievements of modern Science and Technology derive from the principles of Quantum Theory and Theory of Relativity, the greatest achievements of Physics of the last century. People often compare the results that bring to life today as the rising tsunamis in the process of community development with great unpredictable effects on the survival of mankind.

Quantum theory leads to a very important consequence that a vacuum cannot exist as an “empty space”, which completely coincides with the doctrine of the emptiness “permanent” in the Buddhist scriptures. Vacuum is the ground state with the lowest energy level, but that lowest level is also infinitely large. When the right conditions are met, from the vacuum, particles of all kinds will be born that interact with each other through all forms, creating a world of all shapes and sizes as we perceive it. This nature of the “quantum vacuum” leads to the existence of a mysterious Other Power, which is known as the Casimir effect. Applying this effect to nanotechnology and finding new energy sources is a promising research direction that is receiving special attention.

Based on Quantum Theory, Feynman came up with the idea of Quantum Computing, an exciting field of research. Many commented that it will be the most spectacular achievement of this 21st century, which will create great strides not only in Science and Technology but also in many other areas of social life. Quantum computers operate with very special quantum states called “entangled states”. These states lead to a “non-spatial mystical effect”. Associated with Quantum Computing are Quantum Teleportation and Quantum Information – topical fields that are on the rise.

The theory has shown that it is possible to create a mechanism to transfer any state from one location to another and thereby reproduce an object from one place to another instantaneously. This phenomenon can be called “quantum teleportation”, which reminds us of mythical stories about metamorphosis, exorcism, etc.

Concerning quantum teleportation, a new research direction has arisen which is “Psychic Teleportation”. The essence of Psychic Teleportation is to apply the principles of quantum computers to interconnect, convey ideas or control moving objects, transform by a form of mystical psychic interaction.

The achievements of contemporary Physics shine bright rays of wisdom into Prediction Science, a field directly related to the Space-Time category. It can be argued that time does not flow. The perception of time flowing in our minds is just an illusion, as Einstein asserted, “Past, present and future are only inherent illusions”. It has been suggested that the perception of time is related to the quantum processes occurring in the brain.

It has been suggested that in every human being there is an element that performs the function of a quantum computer that has been gifted to the brain by nature. This is also completely consistent with the teaching in the Prajnaparamita Sutra, the passage on the five Aggregates, in which the Aggregate of perception is the Buddha’s wisdom, perception thought, is the Buddha’s dharmakaya, also known as The Directive Mind or the Tathagata’s garbha, the Basic consciousness, the Store consciousness …, which is the subject of artifact micro-creation, creating everything of all shapes and sizes.

From studies of the structure of living cells, it has been argued that neural microchips have quantum properties that function as components of a quantum computer to store and transmit information that is encoded in the form of quantum states. This is also compatible with the commentary in the Buddhist Sutras on Internal and External Extraspace, the mental waves emanating from the Basic consciousness carrying spiritual information are conveyed in the immanent dimensions of non- space-time, no speed limit.

Studying the microscopic world along with the energy forms and the laws of interaction in it to create the cosmic world around us are the core issues of contemporary Physics. A research direction of special importance is building the Grand Unified Theory – unifying interaction forms on the same foundation.  Also from here arose the ideas about the existence of super-interactions corresponding to supernatural phenomena that the normal human senses as well as the current Science – Technology are not qualified to detect and interpret.

Theoretical research results have shown that in addition to the three spatial dimensions and one dimension of time as we are living, there must necessarily exist some more space-time dimensions called intrinsic dimensions – Extra dimensions.

Studying the nature of the intrinsic dimensions are special topical issues, it is hypothesized that the intrinsic dimensions are related to the spiritual world, the laws of action in which are colored by the spiritual categories and the spiritual interaction originates from the intrinsic space.

Here we can think of a form of supernatural energy originating from compassion, love, non-ego, selflessness, which is mentioned a lot in the Buddhist scriptures, the Bible, as well as the spiritual gods often remind, Love as well as a loving environment leads to a form of spiritual interaction that creates “Love Energy” that helps to neutralize diseases, strengthen health, and overcome all obstacles.

In the Bhaisajyaguru Scripture, it is written that: The Bhaisajyaguru, when he was still practicing the Bodhisattva Way, made 12 great vows out of compassion for sentient beings, first of which is: May when he attains The Supreme Bodhi, the body shines brightly like lapis lazuli, illuminating the immeasurable worlds, the merit is sublime, and dwells on the aura net. Sentient beings thanks to that light, their minds are expanded, their bodies are healthy, and they can do whatever they want.

One of the most promising Grand Unified Theory is the Superstring Theory. Superstring theory considers elementary particles as infinitely small strings, the different states of particles as different excited states of strings. Thus the phenomenal world is likened to a magical cosmic symphony under the direction of a supernatural conductor, the supreme Creator.

In Superstring theory, the extra dimension is 6, which shrinks into extremely small rings. The geometric topology of the extra space determines the characteristic quantities of the elementary particles in our ordinary space-time.

Especially in String theory, Ghosts fields must be taken into account. These fields do not appear in reality, but have a guiding effect in governing the interaction mechanism, in the structure of the theory and from which the observable physical characteristics.

Recently, there have been research works (D.V.Duc et al.) published in international scientific journals, proposing a theoretical mechanism to show that the extra dimensions are the origin of mass, electric charge, as well as all interactions, derives from the compactness of the extra dimensions. It also shows that the extra time-like dimensions associated with tachyons can move through ordinary space at unlimited speeds.

The above results are also completely consistent with the teachings in the Buddhist scriptures on Internal and External Extraspace. External Extraspace is the conditioned world – Form world, is the non-Ego world. Internal Extraspace is the unconditioned world – Formless world, is the subject of micro-creation, creates all things in External Extraspace, has endless energy, infinite transformation ability.

Related to this field are the concepts of “Quantum Consciousness”, “Quantum Life”, “Quantum Society”, on which it is possible to approach the interpretation of the categories of prophecy, experience of near-death, astral projection, reincarnation…

Internal Extraspace can be understood as the extra dimensions, the space of the Tathagata’s dharmakayas creating the unconditioned world. External Extraspace is the ordinary space of all things, the conditioned world. The Internal Extraspace has the ability to be free, from which super energy is generated on the basis of the Tathagata’s divine power to create biochemistry and constitute the universe of all things.

Superstring theory was further developed into M Theory (Magic, Mystery, Mother …). On the basis of this theory, there is hope to find an approach to explain spiritual phenomena, phenomena that are considered mystical. A direct consequence of M-Theory is the parallel existence multiverse, capable of simultaneously existing 10500 different universes, each operating according to its own rules. All these universes are made up of the quantum fluctuations of the vacuum and are versions of each other, forever related to each other. Each person himself has a version in all those countless universes and correlates with each other. In this model of the universe, there exist infinitely many people in the same person, and at each location and moment all the information in the whole universe, all places, and all times exists.

The above results are also fully compatible with Bohm – Pribram’s Holography Theory which holds that the universe is a hologram, the brain is also a hologram rolled into that hologram universe. All components of the universe are interconnected and conversely the entire universe exists in all parts of the universe.

The connotation of Holographic Theory coincidentally matching with the four meaningful verses of William – Blake about two centuries ago:

                 To see a World in a Grain of Sand

                 And a Heaven in a wild flower

                 Hold Infinity in the Palm of your hand

                 And Eternity in an Hour.

The interconnection of the whole universe in the hologram theory is also fully compatible with the interconnection interpreted in the Buddhist scriptures. Because there is interconnection between the clones from the Supreme Creator hidden in all things, everywhere, in the universe is a process of interconnection between all things. Thus, in principle, humans can obtain information about all things and phenomena in the universe.

We also need to mention the hypothesis of Naturalism that the natural world is a closed system, no external factors can affect it. However, this does not agree with Godel’s incompleteness theorem (1931) which asserts that a closed axiomatic system cannot be non-contradictory. In order to explain things, there must be an extraneous element, accepting belief in something that cannot be proved. Godel’s imperfection theorem proves that Science never fills its own holes. This is also completely compatible with Einstein’s view that ” The human mind is not capable of grasping the Universe”.

Here, theoretically, there are many problems, many questions must be studied and explained, especially with supernatural phenomena, which requires the application of concepts, categories and complete axioms. The all-new can be very alien to the previously familiar. This is a long-term but promising Science expedition, requiring the contribution of efforts and wisdom of natural and social scientists and non-traditional sciences.

Prof. Acad. Dao Vong Duc

Former director of the Institute of Physics, VAST. Vietnam

REFERENCES

[1]. Dao Vong Duc, Fundamentals of Quantum Superstring Theory – Natural Science and Technology Publishing House 2007

[2]. Dao Vong Duc, Phu Chi Hoa, From Quantum Theory to Quantum Computing – Science and Technology Publishing House 2013.

[3]. Dao Vong Duc, Phu Chi Hoa, General relativity with space – time multidimention – Science and Technology Publishing House 2015.

[4]. Dao Vong Duc, Nguyen Mong Giao, Mass Creation From Extradimensions, J.Modern Phys (USA) 2014, V.5,477

[5]. Dao Vong Duc et al, Time -like Extradimensions as the Origin of Tachyons, J.Phys.Science and Appl (USA) 2014, V4,60

[6]. Dao Vong Duc, Phu Chi Hoa, Generally Covariant Duality and Tachyon of Cosmological Nature, J.Modern Phys (USA) 2014, V.5, 2016

[7]. Đao Vong Duc et al, Mass Spectrum of Spinor Fields in Extradimensions, Int .J.Theoret. Phys. 2015, V.54, 1071

[8]. Dao Vong Duc, Nguyen Mong Giao, A mechanisam for Charge Creation From Extradimensions Int .J.Theoret. Phys. 2016, V.56, 959

[9]. Dao Vong Duc et al, Charge – Mass Sum Rule and the Prediction … Mod. Phys. Lett A, Vol 33, N1 (2019)

[10]. Dao Vong Duc, Nguyen Mong Giao, New Insights into Physical Science, 2020/BP/4020D

[11]. Dao Vong Duc, Nguyen Mong Giao, New Insights into Physical Science, 2020/BP/4028D

[12]. Dao Vong Duc, Nguyen Ngoc Thuan, Quantum Teleportation of two particle states, ICTP Preprint, IC/IR/2002/1 Trieste, Italy, 2002